Mỗi người chúng ta đều cần giữ gìn phẩm giá cao đẹp của lòng tự trọng, bởi khi có lòng tự trọng, chúng ta dễ dàng gặp thuận lợi trong công việc và cuộc sống. Vậy, lòng tự trọng là gì và làm thế nào để nuôi dưỡng nó? Chúng ta sẽ cùng giải đáp thắc mắc này trong bài viết dưới đây nhé.
Lòng tự trọng là gì? Lòng tự trọng tiếng Anh là gì?
Lòng tự trọng tiếng Anh là self esteem hoặc self respect là một giá trị về bản thân, nó liên quan đến cách mỗi người đánh giá và tôn trọng bản thân mình. Nó được coi là một phẩm chất đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng niềm tin vào bản thân, tạo động lực và sự tự tin trong cuộc sống.
Lòng tự trọng có xu hướng thấp nhất trong thời thơ ấu và tăng lên trong thời niên thiếu, cũng như khi trưởng thành, cuối cùng đạt đến mức khá ổn định và lâu dài. Điều này làm cho lòng tự trọng tương đồng với sự ổn định của các đặc điểm tính cách theo thời gian.
Lòng tự trọng khác với sự tự tin. Sự tự tin liên quan đến khả năng của một người trong một lĩnh vực cụ thể trong cuộc sống của họ. Một người có thể rất tự tin về khả năng đặc biệt của mình, nhưng vẫn có lòng tự trọng thấp. Đạt được sự tự tin trong một lĩnh vực cụ thể của cuộc sống sẽ không nhất thiết cải thiện lòng tự trọng.
“Lòng tự trọng là sự xem trọng và tự hào về nhân cách và giá trị của chính bản thân một người.”
Người có lòng tự trọng luôn biết giá trị của bản thân mình, không tự đánh giá thấp hoặc cao quá mức, đồng thời họ cũng biết tôn trọng người khác mà không cần phải xây dựng lòng tự trọng của mình bằng cách đánh bại hoặc xúc phạm người khác. Ngoài ra, người có lòng tự trọng cũng thường là những người có đạo đức tốt, biết quan tâm và giúp đỡ người khác, và luôn duy trì sự kiên nhẫn và lòng trắc ẩn trong tình huống khó khăn.
Người có lòng tự trọng là những người đánh giá và tôn trọng bản thân mình, tin tưởng vào khả năng của mình và biết cách tự đặt ra những mục tiêu đầy tham vọng để phát triển bản thân. Họ có tinh thần cầu tiến và không sợ đối mặt với những thử thách, khó khăn trong cuộc sống.
Người có lòng tự trọng thường biết cách thể hiện và giữ sự tự tin của mình một cách tích cực và không tự đánh giá mình quá thấp hoặc quá cao. Họ cũng thường có sự tôn trọng đối với người khác và đề cao giá trị của sự thật, trung thực và sự công bằng.
Dễ dàng phục hồi sau những khó khăn
Một số nghiên cứu cho rằng khi lòng tự trọng của chúng ta cao hơn, những vết thương tình cảm như bị từ chối và thất bại sẽ ít đau đớn hơn.
Tự trọng giúp chúng ta có xu hướng tự tin hơn trong việc ra quyết định của mình.
Chúng ta ít có xu hướng làm hài lòng mọi người và thấy dễ dàng bày tỏ nhu cầu của mình hơn.
Chúng ta ít có khả năng chịu đựng sự lạm dụng hoặc ngược đãi vì chúng ta biết mình xứng đáng được đối xử tốt hơn.
Lòng tự trọng lành mạnh cho phép chúng ta nhận ra điểm mạnh và học hỏi từ những sai lầm của mình. Chúng ta kiên trì vì chúng ta không sợ thất bại và thực sự tin tưởng vào khả năng của bản thân.
Kỹ năng làm việc nhóm của người có tính tự ái sẽ hạn chế
Người mang tính tự ái đa số có cái tôi lớn, luôn cho rằng quan điểm, ý kiến của bản thân đúng. Đôi khi, họ cũng không đưa ra lập luận của mình vì nghĩ rằng rồi cũng sẽ bị mọi người bác bỏ. Suy nghĩ của họ sẽ có chiều hướng khác biệt với mọi người nên khi làm việc nhóm sẽ khá hạn chế hơn.
Trong trường hợp họ đưa ra quan điểm nhưng bị người khác góp ý, sửa đổi để tốt hơn thì họ lại tự ái và chấp nhất. Vì vậy khó có thể dung hòa với tập thể để cải thiện công việc tốt hơn.
Tìm kiếm và đón nhận sự khuyến khích từ người thân
Những lời khuyến khích từ gia đình và bạn bè có thể giúp tăng cường lòng tự trọng của bạn. Hãy tìm kiếm sự hỗ trợ từ những người thân yêu, và tránh xa những người chỉ biết phê phán, chỉ trích hoặc khuyến khích bạn theo hướng tiêu cực.
Biểu hiện của lòng tự trọng lành mạnh
Dưới đây là 4 dấu hiệu rõ ràng của một người có lòng tự trọng lành mạnh:
Luôn thích làm trung tâm của sự chú ý
Người tự ái thường thích làm bản thân trở thành trung tâm của sự chú ý bởi họ có sự yêu bản thân cao. Họ luôn nghĩ rằng mình quan trọng đối với mọi người xung quanh. Đôi khi, họ sẽ gặp những cảm xúc như buồn hoặc hụt hẫng nếu sự quan tâm từ những người bên cạnh chuyển hướng sang chủ đề về con người khác. Tất cả những cảm xúc này có thể xuất phát từ mọi khía cạnh cuộc sống và cả trong khi làm việc. Từ đó dễ bị tự ti, xa cách với mọi người. Rất dễ nhầm lẫn với bệnh trầm cảm.
Sự khác nhau giữa tự ái và tự trọng là gì?
Tự trọng và tự ái là hai khái niệm khác nhau. Tự trọng là niềm tin vào giá trị của bản thân dựa trên nỗ lực và đóng góp thực tế của mình cho xã hội. Tự trọng giúp con người có tình yêu thương và sự quan tâm đối với bản thân, nâng cao sự tự tin và giúp người ta đạt được mục tiêu trong cuộc sống.
Tự ái là quá tin vào giá trị của bản thân, dễ dàng cho rằng mình không được tôn trọng, không được đánh giá cao như người khác. Tự ái đôi khi gây ra sự chống đối, bất đồng với người khác. Tự ái cũng có thể dẫn đến sự tự ti và lo lắng quá mức về việc được chấp nhận hay không.
Chúng ta luôn nghe nói phải có lòng tự trọng. Vậy lí do để nuôi dưỡng lòng tự trọng là gì?
Đặc Điểm Của Trường Phái Biểu Hiện
Chủ nghĩa Biểu hiện nhấn mạnh quan điểm, góc nhìn của cá nhân – khác với cách biểu hiện của chủ nghĩa thực chứng positivims (lấy hiện tượng, sự kiện làm cái “thực chứng”, làm căn cứ và đề cao khoa học tự nhiên trong việc lý giải tự nhên, xã hội, con người) và các phong cách nghệ thuật khác như chủ nghĩa Tự nhiên (Naturalism) và Ấn tượng (Impressionism).
Thuật ngữ biểu hiện – Expressionism này đôi khi gợi nhắc đến angst (một dạng cảm xúc tiêu cực như lo lắng hoặc sợ hãi). Đặc trưng ban đầu dễ thấy nhất của Expressionism có lẽ là nỗi khổ đau về cả thể chất và tinh thần. Bạn có thể tham khảo các tác phẩm trong khoảng trước thế kỷ 19 để cảm nhận rõ nhất. Ví dụ Crucifixion Panel from the Isenheim Altarpiece (của Matthias Grünewald) hay The Temptation of Saint Anthony (của Martin Shongauer).
Vào cuối thế kỷ 19, sự nổi danh của 2 danh họa Edvard Munch (1863–1944) và Vincent van Gogh (1853–90) tô đậm hơn quan điểm khác biệt của trường phái Biểu hiện. Thay vì ca ngợi, tôn vinh cái đẹp, cái hài hòa, hài lòng vơi sự ngưỡng mộ hào nhoáng, họ đề cao những suy nghĩ, cảm xúc từ sâu trong nội tâm, thể hiện sự chống đối với thực tại đầy gồ ghề và bấp bênh. Có thể thấy rõ điều này trong các tác phẩm: Sunflowers (Van Gogh), The Scream (Edvard Munch), Crucifixion (Emile Nolde)…
Trong khi từ “expressionist” – biểu hiện được sử dụng theo nghĩa hiện đại ngay từ những năm 1850, nguồn gốc của nó được cho là có thể bắt nguồn từ các bức tranh nghệ thuật tên Expressionismes được trưng bày vào năm 1901 tại Paris của một họa sỹ vô danh Julien – Auguste Hervé. Một ý kiến khác cho rằng thuật ngữ này do nhà sử học nghệ thuật người Séc Antonin Matějček đặt ra vào năm 1910, ngược lại với chủ nghĩa ấn tượng: “Một người theo chủ nghĩa Biểu hiện mong muốn trên hết là được thể hiện bản thân. (Từ chối) những nhận thức trực tiếp của mắt để xây dựng nên các cấu trúc hình ảnh phức tạp của tinh thần… Những ấn tượng và hình ảnh qua tâm hồn con người như qua một bộ lọc, tách nó ra khỏi sự vây bám về vật chất để nhìn rõ hơn bản chất thần túy [và] sau đó được tinh lọc, đúc kết thành những dạng tổng quát hơn, mà có thể chép lại qua các thể thức và ký hiệu ngắn gọn, đơn giản.”